Quả đồi mộng mơ của tôi có tên là Đồi Cháy, ở ấp Cầu Đen, Nhã Nam, Yên Thế, Bắc Giang. Đồi nằm cao cao trên con đường đất đỏ, có 1 lối lên đồi cũng mầu đất đỏ, mầu đỏ của gạch cháy và mầu đỏ xậm gan gà - Tôi cứ thắc mắc sao đồi lại có tên là “Đồi Cháy”, nhưng khi nhìn mầu đỏ cháy của con đường và đất ở trên đồi tôi nghĩ tên là Đồi Cháy quả thật đúng. Gia đình tôi theo kháng chiến tản cư lên đây sống cùng gia đình bác Nguyên Hồng, bác Tạ Thúc Bình, bác Ngô Tất Tố, bác Trần Văn Cẩn - Mấy gia đình sống quần tụ trên đồi cùng mấy gia đình nông dân định cư ở đây từ lâu mà bây giờ trải qua bao năm tháng, tôi chỉ còn nhớ có nhà Bác Gần ở dưới chân đồi, chỗ có cái giếng nước trong vắt mà tất cả dân sống ở đây đều ăn nước của giếng này. Xa hơn nữa, dưới chân đồi trên con đường đất đỏ là nhà Bác Cả trọ, anh ruột của mẹ tôi, và nhà cô Uyên, là em ruột của Bố tôi cũng tản cư lên Bắc Giang, cạnh quả đồi này.



ĐỒI MỘNG MƠ

NGUYỄN THỊ HIỀN

Phía sau quả đồi có 1 con suối chảy róc rách, lấp lánh bên dưới là những hòn cuội và những hòn đá mầu vàng, mầu đỏ xậm gan gà, thỉnh thoảng có những con cá lia thia bơi tung tăng bên dưới, có 1 cây cầu bắc qua, đi sang phía ruộng làng bên - mà nay đi qua cây cầu này không biết có phải tên là “Cầu Đen” không mà lại có tên là Ấp Cầu Đen, là ngôi mộ của bác Nguyên Hồng và bác gái nằm dưới chân đồi, quay mặt về đồng ruộng xanh bát ngát mà sau này bố tôi và tôi đã về thắp hương cho hai bác nhiều lần.
Nhà tôi nằm cạnh nhà bác Nguyên Hồng, sát hàng rào, nhà đất nện mầu vàng gạch cua, tường rào đắp đất mầu đỏ vàng gạch cua, sân nhà mầu gạch cua, mầu điển hình của đất trung du bắc bộ - xen lẫn mầu đỏ của đất, mầu vàng gạch cua của nhà và tường rào là mầu xanh thắm của cây cỏ, hoa thủy tiên mầu hồng, hoa mười giờ mầu điều rực rỡ, hoa cúc vàng tươi, nhà tôi trồng 1 cây mít và cây ổi, nhà bác Nguyên Hồng có 1 cây khế to trùm cả sân, quả lúc nào cũng sai lúc lỉu. Nhà bác Trần Văn Cẩn có 1 khóm hoa hồng, hoa mầu đỏ thắm, thơm nức.
Tôi và các em tôi ở với mẹ trên quả đồi này, Bố và các bác ở tận chiến khu Việt Bắc, thường xuyên vắng nhà, thi thoảng mới về thăm.
Mỗi lần Bố tôi về, thế nào cũng có các cô, các chú, các bác khác về theo - mẹ tôi lại rộn ràng, săng sái chuẩn bị nấu ăn và thế nào cũng phải có cút rượu cho các bác nhâm nhi, tiếng nói chuyện, tiếng ngâm thơ, tiếng hát, tiếng cười nói rổn rảng vang khắp quả đồi.
  Tôi còn bé tí - người gầy choắt, tóc đỏ cạch cũng cháy theo mầu đất, cặp mắt to quá cỡ trên khuôn mặt choắt cheo, lúc nào cũng tò mò háo hức nhìn. Nhà tôi ở trên đồi, mỗi lần xa xa phía cuối con đường đất đỏ có 1 làn bụi hồng bốc lên là tôi chạy tót ra đầu đường, đứng trên đỉnh đồi nhìn háo hức, ai đang đi trên con đường ấy? có phải bố hay các bác đang về đồi nhà mình không, bác nào nhỉ? Bác Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, cụ Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, bác Tú Mỡ, bác Họa sỹ Trần Duy hay cô Anh Thơ, hay bác Nguyễn Tư Nghiêm, chú Phùng Cung, Phùng Quán, hay chú Lê Đạt, bác Trần Dần, hay bác Đỗ Nhuận và cả dàn quân nhạc của bác kéo về, … Tôi cứ háo hức đứng trên đồi ngóng chờ, nếu thấy đúng là Bố và các bác, thể nào cũng chạy ào xuống hét ầm lên:
- A thầy đã về, các bác đã về!
Lúc thì Bố tôi, lúc thì bác Nguyên Hồng, Bác Tô Hoài, bác Nguyễn Huy Tưởng, hay bất kỳ cô chú nào bế thốc tôi lên khen tôi đã lớn lên chút xíu, rồi tôi tụt xuống lon ton chạy phía trước dắt các bác, các cô, chú về nhà mình, cứ như chỉ sợ mọi người lạc đường, không biết đường về nhà mình vậy.
Nếu đám bụi hồng ở trên đường ấy không rẽ lên đồi, cứ chạy đi miết, tôi tần ngần đứng đó rất lâu nhìn theo, đứa bé trong tôi tự hỏi, những người ấy đi về đâu, phía xa tít cuối con đường sau đám bụi đường ấy là gì, tôi thắc mắc lắm và nguyện khi nào lớn lên, thế nào tôi cũng xuống chân đồi, đi theo đám bụi hồng đó, đi theo mãi, xem phía chân trời xa ấy có gì, và đêm ấy thế nào tôi cũng thao thức không ngủ, ra sau hè ngồi, ngước mặt nhìn trời sao lấp lánh mà hứa rằng thế nào khi lớn lên tôi sẽ đi thật xa, xa tít cuối con đường đất đỏ có đám bụi hồng kia xem còn có những con đường nào mở ra đi tiếp và thế giới có bao nhiêu quả đồi đất đỏ như tôi đang sống đây.
Bố mẹ tôi sinh được 4 chị em tôi sống trên quả đồi này. Sau này giải phóng Thủ đô, bố mẹ tôi sinh thêm 3 đứa em nữa, vậy là nhà tôi có cả thẩy 7 chị em. Tôi lớn nhất bố đặt tên là Hiền, rồi đến Chương, Hạnh, Đức, Dũng, Ninh, Tuấn.
Riêng tôi được sinh ở làng mình, tức là quê của bố mẹ tôi, làng Chợ Giầu, Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh.
Đồi Cháy, ấp Cầu Đen về sau được gọi thêm 1 cái tên là “Đồi Văn Nghệ” - Có cái tên này vì trong kháng chiến các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ, điện ảnh, nhiếp ảnh, diễn viên, đạo diễn, … dập dìu qua lại. Tôi đã may mắn được gặp các cô chú, các bác, những cây đa, cây đề, những người đã đặt nền móng cho nền văn học nghệ thuật của nước nhà trên quả đồi tuổi thơ này của tôi - những chuyện cổ tích của bác Nguyễn Huy Tưởng, bác Tô Hoài tôi thường được các bác kể cho nghe cũng từ những ngày này - chuyện “Thằng Nhà, con Gạo” của bác Tưởng làm tôi sụt sùi mãi, chỉ cầu cho thằng Nhà con Gạo có nhà để ở, có gạo để ăn - chuyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” của bác Tô Hoài làm tôi ước sao mình cũng đi chu du thiên hạ, thấy chuyện bất bình không tha của chú Dế Mèn hùng dũng, tôi đã mang những câu chuyện từ thuở ấy trong lòng đến mãi tận bây giờ.
Trên quả Đồi Cháy này bố mẹ tôi tăng gia nuôi lợn, gà, trồng rau, ngô, khoai, sắn. Bố giao cho tôi trách nhiệm nuôi con gà mái, Chương nuôi con gà trống, chúng tôi thích lắm, tự nhận trách nhiệm chăm sóc con vật của mình.
Một hôm bác Tưởng, bác Tô Hoài, bác Nguyễn Đình Thi đến nhà chơi, đang ngồi nghe các bác nói chuyện với bố, bỗng Chương em tôi nói:
- Cháu muốn lấy vợ.
Tôi lên 6, em tôi lên 4 - các bác nghe Chương nói tròn xoe mắt nhìn - Bác Tưởng, bác Tô Hoài hỏi:
- Cháu muốn lấy vợ thật à, cháu định lấy ai.
Chương nói:
- Cháu muốn lấy chị Lan con bác Ngô Tất Tố.
Mọi người ồ lên nói:
- Chị Lan 18 tuổi rồi, cháu mới lên 4, làm sao cháu lấy được chị.
Chương nói:
- Cháu nhất định lấy.
Bác Tưởng, bác Tô Hoài, bác Thi nhất loạt nói:
- Cháu muốn lấy vợ cháu phải có 10 voi, 10 hổ, 10 trâu, 10 bò, phải có 1 thuyền gạo, phải có nhà, cháu có gì mà dám đòi lấy vợ.
Chương nói:
- Cháu có con gà.
Thế rồi em tôi mặc quần sịp, áo may ô, chân đi đôi giầy săng đá to tướng, nặng trich của bác Nguyễn Đăng Bẩy, anh ruột mẹ tôi, tay ôm con gà sang nhà bác Ngô Tất Tố hỏi vợ. Em tôi đứng từ sáng đến trưa ở cổng nhà bác Ngô Tất Tố nhất định không về, cuối cùng vợ bác Tố phải bảo chị Lan ra gặp em tôi, chị hứa sẽ làm vợ Chương, em tôi gật đầu đồng ý, xong lại khệ nệ đi đôi giầy to gộc, mang con gà về nhà cho vào chuồng của mình, hí hửng lắm.
- Chị Lan đồng ý lấy cháu rồi.
Các bác và Bố tôi cứ mồm chữ o mắt chứ ấ nhìn nhau kinh ngạc quá. Thế mà bây giờ bác Tô Hoài gần như là lớp người cuối cùng trên quả đồi này cũng đã ra đi.
Có hai đám cưới trên quả đồi mà tôi không bao giờ quên, một là đám cưới cô Uyên tôi lấy chú Nam, lúc đó tôi còn nhỏ lắm không nhớ được, nhưng thường được nghe bố mẹ tôi cùng cô tôi kể lại, đám cưới tổ chức trên đồi có bác Văn Cao hát bài “Sông Lô”, bác Nguyễn Đình Thi hát bài “Người Hà Nội” - Là sáng tác của hai bác - chắc đó là lần đầu tiên 2 bác biểu diễn, tự hát bài hát của mình cho các bạn nghe, trước đám đông như vậy. Rồi hát chèo, hát tuồng, lại còn diễn kịch, ngâm thơ của bác Hoàng Cầm nữa - Bố tôi cũng đóng 1 vai trong vở kịch của bác Hoàng Cầm để mừng em gái mình đi lấy chồng.
Đám cưới thứ hai là đám cưới của bác Đỗ Nhuận và cô Túc. Mẹ tôi làm “bà mối”, làm mối cô Túc là em gái vợ bác Nguyên Hồng cho bác Đỗ Nhuận.
Cô Túc da trắng lắm, có lẽ xinh nhất trên quả đồi này, cô thường chăm nom chúng tôi những lúc mẹ tôi cùng bác Hồng gái và bác Tạ Thúc Bình gái đi nhận, hay trả hàng quân nhu, ở đồi chỉ còn cô và lũ trẻ con chúng tôi. Cô cho chúng tôi ăn, không cho chúng tôi nghịch bẩn, hoặc đánh nhau, kể chuyện cổ tích cho chúng tôi nghe, dạy chúng tôi hát, múa, tính cô nhẹ nhàng, cười rất có duyên - tôi yêu cô lắm, thấy mẹ làm mối cô cho bác Đỗ Nhuận, ghen quá, không đồng ý, chỉ sợ mất cô thôi.
Bác Đỗ Nhuận về Đồi Cháy ít ngày phép. Bác cùng cô Túc, ngồi nói chuyện trong nhà tôi, tôi tụ tập các bạn, anh Hà, Giang, Sơn con bác Hồng, chị Huyền, chị Tâm, Hương con bác Tạ Thúc Bình, tôi cùng 2 em tôi Chương và Hạnh đứng xắp hàng bên ngoài sân miệng kêu to:
- Cô Túc ơi ra trông chúng cháu.
Cứ gào đến lúc cô Túc phải bước ra mới thôi.
Thế rồi đám cưới vẫn diễn ra không tránh khỏi trong sự lo lắng sợ bác Đỗ Nhuận lấy mất cô Túc của tôi.  Bác Nhuận đi về, cùng 1 đoàn quân nhạc hùng dũng, đám cưới diễn ra, tôi không còn khư khư giữ cô Túc nữa, mắt tôi tròn xoe, mồm há hốc.
Bác Đỗ Nhuận đứng phía trước, dàn quân nhạc đứng sau, tất cả mặc đồng phục mầu xanh bộ đội, quân hàm sao vàng lấp lánh, tiếng nhạc cất lên, bác Nhuận chơi đàn violông réo rắt, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy chiếc đàn này, những chiếc kèn đồng này, và 1 dàn nhạc sĩ, ca sĩ cất lời ca hùng dũng.
Không nhớ nổi bài gì, vì mắt cứ dán vào bác Đỗ Nhuận, hình như bác chơi bài “Du kích sông Thao”, chỉ nghe âm thanh rầm rập, trầm trầm, âm vang, rồi lại réo rắt bay vút lên, tít ra đồng ruộng, lại bay tới trời xanh. Chiếc đàn tựa vào cằm, 1 tay đỡ đàn, ngón tay bấm nút rung rung, tay kia cầm cần kéo đưa lên, đưa xuống, tiếng đàn réo rắt, vút ra từ cây đàn, từ người điều khiển là bác Đỗ Nhuận.
Thôi tôi đồng ý để cô Túc lấy bác Đỗ Nhuận rồi, không sợ mất cô Túc nữa, lại thấy yên tâm, hãnh diện vì từ nay cô Túc đã là vợ của bác Đỗ Nhuận, mà là mẹ tôi làm mối cho 2 người lấy nhau đấy nhé!. Và như vậy tôi sẽ được nghe bác kéo violông, thổi kèn cùng dàn quân nhạc thường xuyên trên Đồi Văn Nghệ này.
Nhớ hôm 05-01-2011 chúng tôi làm lễ khánh thành Nhà lưu niệm cho Bố tôi, Đỗ Hồng Quân  con bác Đỗ Nhuận đã lên phát biểu, trong đó Quân đã nói 1 câu tôi nhớ mãi, là “Cám ơn bác Kim Lân gái đã làm mối cho Bố tôi lấy mẹ tôi để có được tôi ngày hôm nay”.
Đỗ Hồng Quân bây giờ cũng là nhạc sĩ, là Chủ tịch Hội nhạc sĩ Việt Nam như bác ngày nào, Quân giáng người thấp lùn, to con như bố, nhưng có nụ cười duyên dáng, đẹp như cô Túc của tôi thuở nào vậy.