Hồn nhiên như cây cỏ, sống rong rêu như cái bóng của mình, Nguyễn Bắc Sơn cứ thế mà đi hết năm cùng thàng tận. Sau 1975, ông không sáng tác thêm được bao nhiêu. Thơ ông thuộc vể ngày cũ. Đời ông thuộc về miền hoang vắng. Nhưng bạn bè, người yêu thơ chưa bao giờ quên ông. Nguyễn Bắc Sơn thuộc tuýp nghệ sĩ tác phẩm không nhiều nhưng giai thoại không ít. Ông sống lẫn lộn giữa hiện tại và quá khứ, giữa hoài niệm trong veo và thực tại đua chen, giữa hư và thực. Rất nhiều năm, như một người thừa không thể thiếu.






ĐÃ BỎ XỨ MỘT TÂM HỒN HOANG VẮNG

NGUYỄN HỒNG LAM

Ngày tôi sinh, với tác phẩm thơ phản chiến “Chiến tranh Việt nam và tôi” (1972) ông đã danh nổi như cồn. Nhưng ngay cả cái tập thơ trứ danh đó, lớn lên tôi cũng chỉ đọc bài được, bài mất, chưa bao giờ được cầm trên tay nguyên tập. Bởi thơ cũng như người, Nguyễn Bắc Sơn là của….chế độ cũ, một thời gian dài vẫn sống nhưng không tồn tại, nghĩa là cứ phải dấu dấu diếm diếm, phù du đâu đó trong trí nhớ và sự ngưỡng mộ, yêu mến của bạn bè, người yêu thơ, trong đó có tôi – lớp hậu sinh.
Thì đã làm sao? Cái thời mới lớn, nói nghiêm túc về một vấn đề không nghiêm túc, thơ Nguyễn Bắc Sơn chất đầy trong hành trang tán gái của tôi và nhiều gã trai khác. Thơ ông có những câu bình dị mà ấm áp, đẹp đến nhức lòng:
Ở Ðà Lạt, ngoài khung cửa kính
Giàn su xanh thở ấm má em hồng
Và tôi, kẻ mười năm không áo lạnh
Biết đời mình đủ ấm hay không?
Ở Ðà Lạt ta tha hồ cuốc đất
Và tha hồ ẩn hiện giữa ngàn cây
Sẽ đi tìm cây cần trúc nhỏ
Ra hồ ngồi, câu đá câu mây.

Mê thơ, nhưng mãi đến năm 1989, khi có một thời gian ngắn trọ học ở Phan Thiết, tôi mới có dịp gặp người. Gặp thôi, không quen. Ở Đồi Dương hôm đó Nguyễn Bắc Sơn đang say, đang rượt đuổi một gã nào đó to như hộ pháp, râu ria xồm xoàm. Thơ đuổi thì người ta chạy chứ sợ hay thua thì chắc là không, tôi đoán thế. Bởi lẽ, nhà thơ là người lẻo khoẻo, râu ria lém đém. Nói chung là vừa đủ cho tôi hơi thất vọng, bởi trước đó, đọc thơ, tôi cứ nghĩ ông là một tráng sĩ lừng lững, ngang tàng. Không ngang tàng, sao viết được thế này:
Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô
.

Sau này, đi viết, ra Phan Thiết thường xuyên, tôi gặp, ngồi quán chung với ông nhiều lần. Lần nào ông cũng bảo: “Tụi mày là Trung ương, về địa phương muốn bắn thì mang theo đạn. Tụi tao chỉ dọn bãi”. Nói vậy thôi, chứ gặp nhau, ông chỉ uống một ly cà phê đen, chẳng bia rượu hay nhậu nhẹt gì. Bởi, chục lần như một, bất kể sáng chiều, cứ gặp là tôi thấy ông đã say trước. Bảo say là bởi mặt ông vừa đỏ vừa tái, đi chân nam đá chân chiêu, chứ trước đó có uống hay không thì thật tình tôi không biết.

Thua ông 30 tuổi nhưng may mắn bài viết của tôi được ông đọc khá nhiều, nhất là những bài viết có liên quan đến nắng gió Phan Thiết hoặc toàn xứ ma Bình Thuận. Một lần, có việc đang đi chung với nhà văn Hồ Việt Khuê, nhà báo Phương Nam, tôi bất ngờ bị ông đang ngồi cà phê với các anh Hà Thanh Tú, Huỳnh Thanh….của báo Bình Thuận - chặn ngay đầu cầu Trần Hưng Đạo. Kéo riêng tôi ra một khoảng xa, đứng ngay giữa đường, bộ mặt rất quan trọng, nhà thơ dấm dẳn: “Hồng Lam, mày đi nhiều, để anh chỉ cho mày một tuyệt chiêu phòng thân của giang hồ. Khỏi cần dao súng gì, mày cứ chơi chiêu này là chắc cú…”.
Trong tay đang cầm một chiếc túi vải kéo giải rút đầu miệng, Nguyễn Bắc Sơn lập tức quật mạnh ba nhát vào ngực tôi. Tôi….gục ngay giữa đường, đau lịm cả người, hoa cả mắt. Khi gượng tỉnh, bung nút áo, tôi thấy ngực mình hằn sâu ba vết, mép thâm tím và ứa máu. Trời ạ, tuyệt chiêu của gã nhà thơ – giang hồ già là ba cái…ổ khóa bằng đồng nặng trịch bỏ trong túi dết giộng thẳng vào ngực gã đàn em giang hồ - là tôi - một cách không thương tiếc. Không đề phòng, hôm đó tôi lãnh đủ!

Một lần khác vào năm 1998, tôi ra Phan Thiết tìm cuốn “300 năm Phan Thiết” làm tư liệu. Sách đã phát hành trước đó một năm nên cả ở Sở VHTT lẫn báo Bình Thuận cũng chẳng ai còn cuốn dư nào để cho tôi. Nguyễn Bắc Sơn bảo: “Sao mày không hỏi anh. Dễ ợt, theo anh về nhà, anh lấy cho”. Dẫn tôi đến trước một căn nhà gỗ, nhỏ nhưng gọn gàng, nằm nép bên một động cát phía sau trường Dục Thanh, Nguyễn Bắc Sơn điềm nhiên đẩy cánh cổng bằng gỗ đã bong sơn mời tôi vào. Trong khi tôi đang đứng quan sát một vòng, anh điềm nhiên mở nốt cánh cửa nhà không khóa, vào thẳng giá sách, không cần tìm mà rút ngay cuốn sách tôi cần, bảo: “Bỏ vô cặp liền đi”. Không hiểu ý, tôi điềm nhiên lật vài trang sách, xem ngay tại chỗ. Nguyễn Bắc Sơn không buồn mời trà pha nước gì cả, cứ giục hoắng củ tỏi: “ Cất đi. Đi lẹ lên!”. Rồi chụp tay tôi, ông già nhỏ thó lôi xềnh xệch ra cửa như ma đuổi. Chưa đến cửa thì một phụ nữ đứng tuổi bước vào, đon đả chào: “Anh Sơn lâu mới lại chơi hí? Chú em đây là…?”.
Rất kỳ quái, Nguyễn Bắc Sơn vẹt chị phụ nữ sang một bên, kéo tôi lách nhanh qua cửa, giục: “Chạy (xe) đi!”. Không hiểu gì sất, tôi nổ máy, ông nhà thơ già tót ngay lên sau yên…
Quay lại quán cà phê, kể cho các nhà văn đàn anh là Hồ Việt Khuê và Lê Nguyên Ngữ nghe, hai ông anh cười ngất. Anh Ngữ bảo: “Cha Sơn vừa đưa mày đi ăn cắp sách đó. Chả làm gì có nhà. Hồi nãy, anh em mày vừa vào nhà ...Nguyễn Như Mây. May mà vợ nó không la làng lên, không thì mày chết!”
Tôi nghe suýt ngất, chỉ mong đất nứt cho mình độn thổ. Nhìn sang, lão tiền bối Nguyễn Bắc Sơn, mặt không chút hối hận, nói tỉnh bơ: “Ừ, thì nhà thằng Mây. Nhà ai kệ nó chớ. Mày cần sách thì cứ lấy mà đọc. Để đó nó mục, uổng, có ai đọc đâu!”

Hồn nhiên như cây cỏ, sống rong rêu như cái bóng của mình, Nguyễn Bắc Sơn cứ thế mà đi hết năm cùng thàng tận. Sau 1975, ông không sáng tác thêm được bao nhiêu. Thơ ông thuộc vể ngày cũ. Đời ông thuộc về miền hoang vắng. Nhưng bạn bè, người yêu thơ chưa bao giờ quên ông. Nguyễn Bắc Sơn thuộc tuýp nghệ sĩ tác phẩm không nhiều nhưng giai thoại không ít. Ông sống lẫn lộn giữa hiện tại và quá khứ, giữa hoài niệm trong veo và thực tại đua chen, giữa hư và thực. Rất nhiều năm, như một người thừa không thể thiếu.

Mười năm nay, vì những lý do riêng có mà chung cũng có, tôi không ghé lại Phan Thiết, dù đi ngang chắc không dưới trăm lần. Tôi cũng không gặp, chỉ thỉnh thoảng hỏi thăm qua anh em văn nghệ, nghe về ông qua một vài giai thoại mới. Những giai thoại nhạt dần, lịm dần, thoi thóp. Và đến sáng nay, mùng 4-8-2015, tôi nghe tin ông về cõi tiêu diêu....

Chợt nhớ ra, chơi với ông bảo nhiêu năm, tôi cũng chẳng còn giữ được tấm ảnh nào chụp chung cùng ông cả. Hình như cứ phải có ai đó ra đi, có gì đó mất mát, người ta mới nhận ra mình là kẻ vô tâm...

Ừ thôi, đã nhạt một kiếp người. Muốn đọc lại vài câu thơ ông viết, không hiểu sao tôi chẳng nhớ được gì khác ngoài duy nhất những câu trong bài “Bỏ xứ”. Hình như trong đó, thơ ông đã soạn sẵn lời giã biệt:
Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.

Đi nhé, anh Sơn! Xin chào nhé, một tâm hồn hoang vắng!

4-8-2015