Ai trò chuyện với Đoàn Văn Cừ cũng có ấn tượng ông hiền, chất phác, có phần ngây thơ nữa. Lần đầu tôi được diện kiến ông, tới nay đã hơn nửa thế kỷ. Hồi ấy ông làm biên tập ở nhà xuất bản Phổ thông, phố Tô hiến Thành, Hà Nội.  Tôi là sinh viên y đang tập làm thơ, đến chơi với Tô Hà, Nguyễn Mỹ, cũng làm ở đấy, mà được gặp ông. Thơ ông dạo ấy chủ yếu ca ngợi nông thôn mới, Giếng xây, đường gạch, cây đa Tường tô khẩu hiệu, chim ca rộn ràng. Ông hay trực tiếp biểu lộ cảm xúc bằng những câu trữ tình cảm thán Lòng ơi!  (kiểu như: Còn không lòng hẹn với lòng / Đánh Tây quyết giữ đến cùng thôn Vân). Áp tết, cơ quan mổ lợn liên hoan, ngồi vào mâm, Nguyễn Mỹ nhìn đĩa lòng lợn, đọc với Tô Hà, trêu ông Cừ: Lòng ơi! lòng hẹn với lòng / Có gan có tiết mà không có dồi. Ông Cừ nghe đủ nhưng không nói gì. Bọn kia tưởng hay, cười ha hả. Hôm sau tôi đến, Tô Hà làm như kết tội Nguyễn Mỹ để có cớ đọc lại. Lại thích chí cười. Ông Cừ cũng ngồi đấy. Thấy tôi e dè, không cười theo hai tên kia, ông nhìn tôi vẻ đồng tình và lắc đầu: Bọn này nó không hiểu thơ trữ tình.



CHỢ TẾT còn nguyên sắc màu thương nhớ

VŨ QUẦN PHƯƠNG

        Đoàn Văn Cừ người Nam Định, huyện Nam Trực, xã Nam Lợi, làng Đô Quan. Ông sinh ngày 25-11- 1913, mất ngày 27-6- 2004. Ông có thơ đăng báo từ 1939: bài Chợ tết in trên báo Ngày nay số Tết kỷ Mão. Năm 1944, xuất bản tập thơ đầu Thôn ca ngót năm mươi bài. Từ 1947 đến 1987 ông có thêm sáu tập nữa vẫn viết theo bút pháp của tập thơ đầu và vẫn lấy nông thôn làm đề tài, cố nhiên bây giờ là một nông thôn mới, mới trong sinh hoạt, mới trong đường ăn nết ở. Người nông dân đã là xã viên hợp tác, làm đồng theo giờ giấc, họp hành trong đoàn thể. Khác xưa nhiều. Nội dung thơ thôn quê của Đoàn Văn Cừ, cố nhiên, cũng khác xưa. Nhưng nhắc tới ông, người ta vẫn nhớ đến Chợ tết, Đường về quê mẹ, Trăng hè...  những bài thơ trong tập Thôn ca. Có lẽ Đoàn Văn Cừ cũng lưu luyến với những bài thơ thuở ban đầu ấy, hai tập thơ sau ông mượn lại những tên tập, tên bài của ngày xưa, nên mới có Thôn ca IIĐường về quê mẹ.

        Thuở ấy, giữa lúc chín rộ của phong trào Thơ mới, thi đàn tràn ngập thơ lãng mạn tình ái thị thành, Đoàn Văn Cừ chủ trương một lối thơ hiện thực và chuyên về đề tài nông thôn. Quanh đề tài này còn quần tụ Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, và sau một chút là Anh Thơ.  Nông thôn trong thơ Nguyễn Bính là nông thôn của cõi mộng với những mối tình trai gái e lệ đẹp như mơ. Nông thôn của Đoàn Văn Cừ là nông thôn của đời thực với chuyện gặt hái lam làm, ma chay, cưới xin, chợ búa, rồi cháy nhà, bắt cướp, với những ông lái, ông đội, bác bán thuốc ê, cả những đàn trâu, đàn vịt... Bút pháp tả thực của Đoàn Văn Cừ kết hợp được cả quan sát lẫn tưởng tượng. Quan sát  tinh tế, sắc sảo, lại hóm hỉnh. Ông rất mạnh về cảm quan thị giác, rất thích mầu sắc, ở bài Chợ tếtđếm được hai mươi ba màu. Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam, ví thơ ông là nụ cười ngũ sắc có lẽ vì ông hóm và cái thị hiếu “cu lơ” đó. Thơ ông, dày đặc chi tiết, cụ thể, chính xác như phóng sự báo chí, nhưng đọc không thấy rậm vì những quan sát ấy đầy phát hiện Có những cảnh ai cũng thấy, cũng quen, nhưng dưới bút ông nó mới mẻ như lần đầu người ta được thấy. Ông tả phiên chợ tết có đủ cảnh đi chợ, họp chợ và vãn chợ. Cảnh nào cũng có những nét bất ngờ thú vị. Cho nên kể việc mà không khô khan, cảnh quen mà gây sửng sốt. Tả  chợ đang đông rất dễ rậm lời. Vậy mà chỉ với hai mươi ba câu thơ ông tả được không những cái đông đúc, ồn ào, nhốn nháo thượng vàng hạ cám, lại cho thấy rõ hình ảnh từng loại người, từng loại tâm lý tính cách, đến cả phong tục tập quán, lối sống của một thời. Thơ Đoàn Văn Cừ có thể góp vào việc nghiên cứu nông thôn với tư cách là những tư liệu tin cậy. Những tư liệu được nhìn với con mắt thơ. Con mắt biết tìm ra cái ý vị của đời. Đây cụ lý, ông to nhất làng, đi chợ:Áo cụ lý bị người chen sấn kéo”. Chợ mà, nó có chừa ai, lên đến chức cụ lý rồi nó vẫn không tha. Nó chơi cụ bằng ba cái động từ rất chợ búa chen, sấn, kéo đến nỗi cái thứ nghiêm chỉnh nhất trên đầu cụ là cái khăn cũng không yên:Khăn trên đầu đang chít cũng tung ra.

            Chỉ là tả thực mà đã có sức lôi cuốn, đã tạo được chất thơ, đấy là tài quan sát của Đoàn Văn Cừ. Cao hơn nữa, ông đưa tưởng tượng vào  trong quan sát:Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ. Để  lắng nghe người khách nói bô bô”. Trâu dim mắt, người bô bô nói là tả thật, là quan sát tinh. Nhưng nối được hai quan sát ấy vào với nhau lại là tưởng tượng của Đoàn văn Cừ: Trâu dim mắt vờ ngủ để lắng nghe người bộc lộ chân tướng. Thế là trâu thành bậc hiền triết ngẫm nghĩ về sự tham tiền của cái thằng người nông cạn, nói bô bô.

        Tưởng tượng trong thơ Đoàn Văn Cừ chính là phút thăng hoa của quan sát, từ quan sát mà thành. Đang tả thực những người mua người bán nét nọ tiếp nét kia, bút pháp nhẩn nha như người đi bộ đường trường bỗng nhiên ông cất cánh: Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ. Nước thời gian gội tóc trắng phau phau”. Vẫn là tả nhưng đã có cái nhìn ảo về một việc thực. Người đọc được tiếp nhận một triết lý về năm tháng đời người rất trực giác. Ai bây giờ đang chủ trương “khó hiểu mới” là thơ nên ngẫm nghĩ về câu thơ dễ hiểu và không dễ làm này của Đoàn Văn Cừ mà luận ra ưu thế bút pháp cho tư duy hiện đại.

            Ai trò chuyện với ông Cừ cũng có ấn tượng ông hiền, chất phác, có phần ngây thơ nữa. Lần đầu tôi được diện kiến ông, tới nay đã hơn nửa thế kỷ. Hồi ấy ông làm biên tập ở nhà xuất bản Phổ thông, phố Tô hiến Thành, Hà Nội.  Tôi là sinh viên y đang tập làm thơ, đến chơi với Tô Hà, Nguyễn Mỹ, cũng làm ở đấy, mà được gặp ông. Thơ ông dạo ấy chủ yếu ca ngợi nông thôn mới, Giếng xây, đường gạch, cây đa Tường tô khẩu hiệu, chim ca rộn ràng. Ông hay trực tiếp biểu lộ cảm xúc bằng những câu trữ tình cảm thán Lòng ơi!  (kiểu như: Còn không lòng hẹn với lòng / Đánh Tây quyết giữ đến cùng thôn Vân). Áp tết, cơ quan mổ lợn liên hoan, ngồi vào mâm, Nguyễn Mỹ nhìn đĩa lòng lợn, đọc với Tô Hà, trêu ông Cừ: Lòng ơi! lòng hẹn với lòng / Có gan có tiết mà không có dồi. Ông Cừ nghe đủ nhưng không nói gì. Bọn kia tưởng hay, cười ha hả. Hôm sau tôi đến, Tô Hà làm như kết tội Nguyễn Mỹ để có cớ đọc lại. Lại thích chí cười. Ông Cừ cũng ngồi đấy. Thấy tôi e dè, không cười theo hai tên kia, ông nhìn tôi vẻ đồng tình và lắc đầu: Bọn này nó không hiểu thơ trữ tình. Sợ tôi cũng không hiểu, ông giải thích: Thơ trữ tình chứ không phải thơ tình yêu đâu. Nó là “lia rích”. Bọn này...”. Ông Cừ lại lắc đầu nhìn hai ông trẻ kia đang cười, tỏ ý thất vọng. Còn tôi lúc ấy chỉ thấy mừng vì được gặp, được nghe ông Đoàn Văn Cừ. Chả là năm 12 tuổi (1952), khi học lớp nhất trường tiểu học, tôi đã được học thuộc lòng bài Đường về quê mẹ. Năm lớp đệ lục trung học lại được nghe giảng bài Chợ tết. Tôi thích cả hai bài thơ và cứ tưởng tượng về người viết ra nó. Hôm đó, với tôi, ông Cừ như người trong cổ tích bước ra.

     Nghe Đoàn Văn Cừ trò chuyện, tôi lại ngạc nhiên về sự thật thà đến ngây thơ của ông. Sau này nghe Tô Hà kể về cách ứng xử luôn luôn đôn hậu, kính cẩn của ông đối với bất cứ ai, thì tôi nhận ra tính nghiêm cẩn rất “kẻ sỹ” của ông đối với việc, với người và với chính bản thân ông. Ông tự hào với những gì mình đạt được nhưng ông cũng rất khiêm nhường. Cả tự hào lẫn khiêm nhường đều hồn nhiên, chân thật, rất cảm động. Các bạn trẻ dến thăm ông, bằng tuổi con rồi bằng tuổi cháu ông, ông coi họ như bạn và tự xưng là Cừ: Cừ mới viết bài này..., Cừ rất lúng túng về việc đó...”. Với thơ, ông cũng luôn thành kính, trân trọng, rụt rè như thuở ban đầu cầm bút. Đó là một ưu điểm, một sự trọng nghề nhưng cũng có phần gây trở ngại cho sự thể nghiệm, cho những đổi thay thi pháp. Tôi đã đọc nhiều bài viết khen thơ ông. Lời khen nghiêng về các bài trước 1945. Tôi có ngẫm nghĩ về sự khác biệt này. Sao thơ ông phần Ngày xưa viết trước cách mạng lại nhiều bài hay mà phần sau, câu hay thì có mà bài hay lại không nhiều.

            Phải chăng phần trước ông viết như lưu giữ lại kỷ niệm. Phần sau ông viết để ca ngợi hiện tại và tương lai. Xưa nay trước những vẻ đẹp sắp không còn, lòng người thường lưu luyến, tình cảm thường lắng lại, sâu sắc. Lợi thế ấy  được ông phát huy bằng những quan sát tinh tế, hóm hỉnh làm bật lên những nét lạ, nét vui. Thơ ông khi ấy đóng vai một bảo tàng tâm hồn mà ông là người sưu tầm hiện vật tài năng, độc đáo. Ở chặng sau, hiện tại và cả tương lai trong hình dung của ông lại chung nét đặc thù với văn báo chí, cổ động. Ông không phát huy được sở trường khám phá của thị giác, khứu giác, thính giác và cả linh giác như trước kia.
            Tạng cảm xúc Đoàn Văn Cừ rất mạnh tình cảm công dân. Ở chặng sáng tác trước tình cảm ấy không nói ra thành văn mà bàng bạc trong cảm xúc. Ở chặng sau ông biểu lộ rõ bằng câu chữ. Lập trường công dân, nhiệt tình công dân được xác định nhưng có lẽ vì thế mà sức mê hoặc của câu thơ lại vơi đi. Có lẽ ông cũng tự thấy sức níu giữ lòng người của thơ ông chặng sau không bằng chặng trước. “Trích ngang” lý lịch văn chương ông coi: chứng minh thư là Chợ Tết, còn chân dung là người lưu giữ hồn quê . Tất cả đều thuộc về chặng trước. Có phải thế chăng mà ở chặng viết sau ông đã tăng chất trữ tình bằng cách dặm vào giữa các câu miêu tả những độc thoại nội tâm Lòng ơi mà các đàn em Nguyễn Mỹ, Tô Hà đã lấy đó để trêu ông.          
            Từ khi nghỉ hưu, về sống lại với căn nhà xưa mà ông gọi là thảo lư sông Ngọc, ông nghiền ngẫm nhiều về thi pháp nhưng vẫn trong quỹ đạo xưa, nghi lễ cũ. Tấm lòng thành kính trân trọng với đời, với thơ của ông làm chúng ta xúc động. Chúng ta càng xúc động khi đọc những dòng lưu bút ông gửi các con trước chuyến đi cuối của đời mình: Đám tang cậu thuộc quy mô thôn (ông gạch dưới ba chữ này) Hết sức đơn giản, dân tộc. Đầm ấm, thương yêu, tình nghĩa (...) Điều cậu trăn trối cuối cùng: Sau khi cậu qua đời, những năm mợ còn ở cõi đời này, anh chị em con hết sức hiếu thảo, thương yêu mợ. Cụ thể:..”. Ông đã dặn cụ thể những điều các con cần làm cho mẹ. Bài thơ cuối trong đời ông, tôi nghĩ, chính là những dòng thanh thản, tình nghĩa ấy.

            Vận hội Đổi mới có làm câu thơ ông tươi lên Lòng ơi sao lạ thế lòng Bỗng nhiên đi nhớ người không nhớ mình nhưng ông biết, chính ông tự biết:Còn như một tập thi ca. Là ghi tích cũ nói ra thêm buồn. Từ ngày vắng bạn tâm hồn. Thơ ta cũng mất cả nguồn vui xưa. Chúng ta thành kính chia sẻ với ông nỗi buồn này. Nhưng trên nỗi buồn ấy lại là niềm vui, niềm tự hào trước những gì ông để lại. Không nhiều nhưng đặc sắc. Bà Huyện Thanh Quan sống mãi với hậu thế chỉ bằng sáu bài thơ mà hai bài còn trong diện tồn nghi. Một nhà thơ đồng tuế, đồng thời với Đoàn Văn Cừ là Vũ Đình Liên vẫn đồng hành với hậu sinh chỉ  bằng một bài thơ, bài Ông Đồ. Đoàn Văn Cừ có cả  một tập, Còn như một tập thi ca. Hơn thế, những gì ông lưu giữ và trao lại cho chúng ta lại thuộc về những thứ gia bảo ngày càng quý hiểm. Nó là hoài niệm của nhiều thế hệ bạn đọc, càng xa càng nhớ. Thơ ông đã là bảo tàng tâm hồn của mọi người Việt nặng lòng hồi cố, nhớ quê, thương lại cội nguồn. Mạch bút Thôn ca góp phần làm giàu văn mạch thi ca dân tộc. Chúng ta biết ơn ông!