Cái xứ cực Nam, phía Tây nước ta được neo cái tên Hà Tiên, chỉ vì xa xưa các cụ nói, đây là nơi bồng lai tiên cảnh hoang vu, chỉ có các nàng tiên trên trời xuống múa ca và ngắm mình trên đầm nước Đông Hồ, vào những đêm trăng rằm. Dù cho đến nay, theo lịch sử cách đây hơn 300 năm, mảnh đất nhỏ bé này đã được người khai sinh ra nó là Mạc Cửu đặt tên, và đã nổi tiếng với mười cảnh đẹp như tranh vẽ trên non, dưới biển, nhưng người dân ở đây vẫn có niềm tin rằng, vào những đêm sáng trăng các nàng tiên thường nhập vào giấc mơ của mình, bay qua mặt nước Đông Hồ, soi gương và cười khúc khích.



Hà Tiên miên man chuyện tình lãng mạn

VƯƠNG TÂM

 Chả thế mà từ xưa nhà thơ Mạc Thiên Tích, con của Mạc Cửu, đã từng viết về hồ nước bao la này:
“Một hồ leo lẻo tiết thu quang
Giữa có vầng trăng nổi rỡ ràng
Đáy nước chân mây in một sắc
Ả Hằng nàng Tố ló đôi phương…”
       Mạc Thiên Tích còn làm nhiều thơ vịnh về cảnh sắc Hà Tiên với và rất coi trọng tiếng Việt, cùng với sự kế thừa ngôn ngữ thơ ca dân gian rất sâu sắc. Và, chỉ ngay năm sau nối nghiệp cha, vị tướng trẻ 29 tuổi này đã lập ra Tao Đàn Chiêu Anh Các, vào đêm Nguyên Tiêu năm Bính Thìn (1736), thu hút được 36 thi nhân tham gia. Vậy có thể nói, cách đây 274 năm, Chiêu Anh Các là hội thơ đầu tiên ở nước ta.  

                                    
Đường lên lăng họ Mạc



    Tình mộng 1
       Và cũng chính trong thời gian này, ngài đô đốc trẻ Mạc Thiên Tích đã nảy sinh một mối tình với một nàng thơ, nhưng lại đóng giả trai để nhập hội thơ Chiêu Anh Các. Mối tình là kết quả của một cuộc đối thơ, trong đêm hoa đăng. Mạc Thiên Tích ứng khẩu, có vẻ thăm dò trêu đùa người đẹp:
“Bên kia sen nở nhiều hoa
Người khen hoa đẹp nón nà hơn em
Trên bờ em đứng em xem
Mọi người sao bỗng không thèm nhìn hoa”
  Ngay lập tức anh chàng “mặt hoa da phấn” kia đáp lời:
“Mặt ao sen nở khắp
Trông hoa lẫn bóng người
Trên bờ ai đứng ngắm
Sao chẳng thấy hoa tươi?”
     Sự thật “anh chàng” này là người đẹp Nguyễn Thị Xuân phải đóng giả trai theo bố đi buôn, sau gia đình bị mắc kẹt ở lại Hà Tiên. Cuộc hội ngộ của hai người đã nên duyên. Mạc Thiên Tích cưới cô về làm vợ lẽ. Từ bạn thơ trong Tao đàn, hai người đúng với nghĩa, trai tài gái sắc, cùng đồng cảm về thơ ca đã tạo nên cuộc tình lãng mạn nổi tiếng thời kỳ này. Nhưng kèm theo đó là sự khổ đau, khó ngờ cho người nữ sĩ tài sắc vẹn toàn, ngay từ khi dính tới bả vinh hoa.
     Bởi lẽ người vợ cả của Mạc Thiên Tích là phu nhân Nguyễn Thị Thủ ngấm ngầm ghen tuông, luôn luôn chờ thời cơ để làm hại cô vợ lẽ trẻ trung. Một lần, Mạc Thiên Tích đi làm việc quân xa, bởi ngày đó đất đai mở mang làm ăn phát triển tới tận đất mũi Cà Mau. Lợi dụng dịp này, phu nhân sai người bắt cóc nàng Xuân, rồi úp một cái chậu lớn lên, nhốt nàng trong đó cho đói khát và nghẹt thở dần rồi sẽ chết. Nhưng linh tính hay mộng báo bất thường về tai hoạ sẽ xẩy ra với người bạn thơ yêu quý của mình, Mạc Thiên Tích đột ngột quay về, và đã cứu nàng thoát chết.
     Nhưng rồi nhiều nguy cơ vẫn rình rập, cuộc sống bị đe doạ, mỗi khi xa chồng, nên nàng Xuân xin được đi tu. Mạc Thiên Tích đã cho xây một ngôi chùa trên núi để cho người vợ yêu của mình được yên hàn và hai người có nhiều cơ hội đàm đạo văn thơ. Đó là ngôi chùa Phù Dung, ngay ở chân núi Bình San. Trước đó chùa có tên là am Phù Cừ, người dân ở nơi đây vẫn gọi là chùa của Ái Cơ Phù Cừ (Nguyễn Thị Xuân). Sau này mọi người còn lấy thêm tên Phù Dung để ví von cho sự toàn bích về tài sắc và sự khổ đau trong tình yêu của bà. Bởi lẽ Phù Cừ và Phù Dung đều là tên của hai giống hoa Sen, một trắng, một hồng. Chính Ái cơ Phù Cừ (1720-1761), trước khi mất cũng đã từng làm một bài thơ về hoa sen để tặng lại mọi người, với một tâm trạng đầy bi ai nhưng thật mạnh mẽ:
“Vươn  khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phỉ lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Đừng sánh thanh cao với đoá sen”  
     Đó là câu chuyện bi kịch đầy lãng mạn của cô gái xứ Quảng với ông chủ Tao Đàn thơ Chiêu Anh Các, một tướng lĩnh và là người hùng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hoá cho xứ sở thần tiên này.
     Nhưng sau 35 năm hoạt động, hội thơ Chiêu Anh Các của các thi nhân Hà Tiên đã bị giải tán bởi chiên tranh loạn lạc kéo dài, Mạc Thiên Tích đã phải sống lưu vong ở nước ngoài rồi tự sát tại Băng Cốc, vào năm 1780.
      Cuộc tình của Mạc Thiên Tích với nữ sĩ Nguyễn Thị Xuân dù cách đây hơn 200 năm, nhưng không hề mang tình huyền diệu mà là một bi kịch lãng mạn; đã trở thành câu chuyện cổ tích, gắn bó thân thiết với đời sống của người dân Hà Tiên bao đời nay.

 Tình mộng 2
     Và…cho đến 150 năm sau, nơi đây lại có một câu chuyện tình thứ hai, thật tuyệt mỹ giữa hai thi nhân có cặp tên rất đặc trưng cho mảnh đất giầu chất thơ này, đó là Đông Hồ và Mộng Tuyết.
     Nhà thơ Đông Hồ tên thật là Lâm Tấn Phác, sinh năm 1906, tại làng  Mỹ Đức, Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Ông học sư phạm rồi về dậy học ở quê nhà. Ông là người có tài thơ văn và luôn luôn đề cao tiếng Việt. Năm 20 tuổi, ông đã lập Trí Đức học xá, để thực hiện ước mơ của mình, chuyên dạy Việt ngữ và sinh hoạt thơ ca. Ông luôn luôn chủ trương:
“Ríu rít đàn chim kêu
Cha truyền con nối theo
Huống là tiếng mẹ đẻ
Ta lẽ nào không yêu?”
      Và cũng có thể nói, Trí Đức học xá là Tao đàn thứ hai ở đất Hà Tiên, được hình thành và xuất hiện một số tác giả có tiếng trên báo Nam Phong ngày đó. Khi cô bé Lâm Thái Úc, tức Mộng Tuyết sau này, đến nhập môn Trí Đức học xá, thì thầy Đông Hồ đã có vợ. Nhưng suốt những năm tháng theo học tại đây, Mộng Tuyết đã làm nhiều bài thơ “tương tư”, thầm kín tỏ lòng yêu mến và gửi gắm một tình yêu đơn phương với người thầy của mình.
     Thi sĩ Đông Hồ không hề để ý tới cô học trò tài hoa này mà chỉ coi như một tiểu muội trong nhà. Bởi thi sĩ Đông Hồ hơn Mộng Tuyết 12 tuổi. Thậm chí khi người vợ đầu của Đông Hồ mất, Mộng Tuyết còn tha thiết gắn mối duyên giữa thầy với chị gái của mình. Nhưng mệnh giời ngang trái, chẳng bao năm người vợ thứ hai của Đông Hồ cũng yểu mệnh chết sớm. Sự đồng cảm về thi ca và tình yêu của Mộng Tuyết đã được dịp bộc lộ với người thầy; và bà đã trở thành người vợ thứ ba của thi sĩ Đông Hồ.

                                    
Nữ sĩ Mộng Tuyết 


     Bắt đầu từ đây, cái tên Mộng Tuyết được bay bổng với những vần thơ đầy lãng mạn và tạo nên một hiện tượng thơ ca vào những năm cuối của thập kỷ 30. Ngày đó tác giả thơ nữ hiếm lắm, tiếng thơ của Mộng Tuyết vang rộng đến nỗi tạo nên dư luận, người ta còn đồn thổi, đây là một trang nam nhi đóng giả gái, chứ nữ nhi thường tình sao làm thơ hay đến thế; ngược hẳn với câu chuyện tình trên của nữ sĩ Nguyễn Thị Xuân đã phải đóng giả trai để ghi danh vào Chiêu Anh Các thuở xa xưa. Thời kỳ hoàng kim của hai thầy trò, và cũng là cặp vợ chồng thi sĩ của đất Hà Tiên đã gây tiếng vang trên văn đàn nước Việt. Năm 1939, tập thơ “Phấn Hương Rừng” của Mộng Tuyết được giải của Tự Lực Văn Đoàn, càng làm cho tiếng vang của xứ sở thần tiên này càng rộng khắp. Năm đó, nữ sĩ Mộng Tuyết vừa tròn 21 tuổi, nhà thơ Đông Hồ đúng tuổi 33.
     Tình yêu của hai người ngày càng sâu sắc qua những hoạt động và quá trình dựng nghiệp văn thơ. Mộng Tuyết đã theo chồng đi khắp nơi, từ Nam chí Bắc để viết sách, làm báo và sáng tác, suốt bốn chục năm ròng rã. Nhưng thật đau buồn, mọi chuyện với bà bị hụt hẫng, vào ngày 25-3-1969, thi sĩ Đông Hồ đã gục chết, bởi đứt mạch máu não, trên bục giảng tại trường Đại học văn khoa Sài Gòn, khi vừa đọc xong những câu thơ của nữ sĩ Ngân Giang:
“Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá
Chênh chếch trăng tà bóng lẻ soi”
     Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nữ sĩ Mộng Tuyết bán nhà ở TP Hồ Chí Minh, về Hà Tiên, và xây một ngôi nhà kỷ niệm thi nhân Đông Hồ ngay trên trụ sở Trí Đức học xá trước đây. Bà nguyện sẽ về ở đó với những ký ức về tình yêu bất tử với người chồng, một nhà thơ tài danh đã tạo dựng được sự nghiệp cho mình. Khi xây mộ cho chồng, bà đã làm bốn câu thơ để khắc trên bia đá tưởng niệm:

“Vũ trụ mang mang trời đất
Thời gian dằng dặc đêm ngày
Một thoáng cổ kim chớp mắt
Nghìn thu dâu bể trao tay”
    Bà đã dành nhiều tâm huyết viết sách và hoàn thành bộ 3 tác phẩm hồi ký “Núi mộng gương Hồ”, NXB Trẻ năm 1998, để lưu lại cho mảnh đất Hà Tiên này những câu chuyện tình và những vần thơ lãng mạn nhất trong đời. Bà âm thầm sống với tình thương nỗi nhớ người chồng suốt 37 năm trong cô đơn, rồi lặng lẽ khuất bóng, cùng với những vần thơ của tuổi 90 vào cõi mộng. 

Vần thơ bên mộ tình
     Giờ đây ai về Hà Tiên, nếu có nghe tới hai câu chuyện tình của những thi nhân, thì hãy dành thời gian lắng nghe những vần thơ dân gian buồn thương nhớ đến những thân phận khổ đau ở góc biển trời nam xa xôi này. Bởi lẽ người đời luôn tiếc thương cho người đẹp, cho bông hoa Phù Cừ thuở nào, nên đã ghi lại bên nấm mộ tình:
“Ngó lên Am tự Phù Cừ
Thương cho người ngọc giã từ lầu son
Về đây nương chốn thiền môn
Tay lần chuỗi hạt cho mòn ngày xanh
Duyên xưa chẳng bận chi tình
Bụi trần chi để vương cành hoa sen…”
    Còn nữ sĩ Mộng Tuyết, sau bao năm dài cô quạnh với niềm thương nhớ mối tình sâu nặng của mình, giờ đây cũng đang yên nghỉ trong chốn thần tiên. Chắc hẳn chẳng ai có thể quên bà, với những câu thơ xuân về loài “Hoa bất tuyệt”, được ghi dấu trong lòng người:
“Giữa đám um tùm lá
Hoa xuân rụng hết rồi
Trên cành, hoa bất tuyệt
Vẫn nở: nụ cười ai?”

                                           

                                           Tượng đài Mạc Cửu ngay cửa ngỏ Hà Tiên

     Hà Tiên khép nép nhưng lại dịu dàng xinh đẹp với nhiều cảnh thơ mộng trên non dưới biển, nhưng lại khó hình dung nếu mảnh đất xa xôi này thiếu đi hai mối tình thơ tồn tại suốt ba thế kỷ qua. Chùa Phù Dung còn đó, một minh chứng cho bi tình sử của nữ sĩ Ái Cơ Nguyễn Thị Xuân và “Đông Hồ kỷ niệm đường” thầm lặng bên hồ, đêm đêm hướng ra biển đón ánh trăng huyền diệu ngợi ca mối tình thuỷ chung son sắt với nỗi cô đơn bất tử mang cái tên Mộng Tuyết ngày nào. Những nỗi niềm còn đó. Những giọt nước mắt cay đắng và xót xa còn đó. Chúng hoà tan vào đất trời Hà Tiên, tạo nên những thiên diễm tình tựa như câu chuyện cổ mà sóng và gió của biển nơi đây vỗ hoài ngàn năm kể mãi chẳng bao giờ hết.