Một người khiếm thị vẫn luôn có thế mạnh về thính giác. Thơ Huỳnh Suy Siêng thường biểu đạt bằng trạng thái “nghe”. Tuy nhiên, ông không chỉ nghe bằng đôi tai mà nghe bằng cả trái tim nữa: “Nghe nỗi nhớ dài thêm. Nghe lá chiều gió lật”. Có lẽ, không ít người băn khoăn, Huỳnh Duy Siêng bị mù từ nhỏ và không hề biết chữ, vậy ông làm thơ bằng cách nào? Suốt ngày Huỳnh Duy Siêng lủi thủi vào ra, chỉ có cái đài để bầu bạn và để kết nối với thế giới. Giữa nghiệt ngã số phận ấy, giữa âm u bóng tối ấy, thơ đã tìm đến với ông. Ông hình thành ý tứ trong đầu, rồi sắp xếp một bài thơ hoàn chỉnh trước khi đọc ra, nhờ người khác ghi chép lại. Khi sáng tạo thi ca vượt qua bóng tối học vấn và bóng tối định mệnh, thì mỗi bài thơ của Huỳnh Duy Siêng có giá trị bằng hai bài thơ. Bởi lẽ chính khao khát sống, rung cảm sống của Huỳnh Duy Siêng đã là một bài thơ cho chúng ta rồi!


ÁNH SÁNG THI CA TRONG BÓNG TỐI SỐ PHẬN

LÊ THIẾU NHƠN

Một người mù từ nhỏ, chưa bao giờ được học chữ, nhưng vẫn sáng tác được hàng trăm bài thơ. Liệu có thể tin được kỳ tích ấy không? Đã nhiều lần tôi muốn viết về ông, nhưng cứ lần lữa, vì nghĩ rằng, đối với một người đặc biệt như nhà thơ khiếm thi Huỳnh Duy Siêng, thì vài dòng thương cảm ngọt lạt hay mấy câu khâm phục vu vơ không thuyết phục bằng một hành động cụ thể nào đó dành cho ông. Tuy nhiên, bây giờ tôi muốn kể câu chuyện về ông để mọi người cùng chia sẻ mơ ước cuối đời của ông!
Nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng và tôi có mối quan hệ đồng hương. Thế nhưng, không vì chút riêng tư ấy mà tôi có ý định ca ngợi quá lời về ông. Do đặc thù nghề nghiệp cá nhân, tôi đã đi khắp đất nước và đã gặp gỡ hàng trăm người làm thơ. Vậy mà, khi đặt trong tương quan so sánh, tôi không thấy ai có số phận độc đáo như Huỳnh Duy Siêng ở Phú Yên. Ngồi trước ông, nếu không chú tâm đến cặp kính đen trên khuôn mặt, thì chắc không mấy người biết Huỳnh Duy Siêng bị mù. Bởi lẽ, từng cử chỉ của ông, từng giọng cười của ông đều lấp lánh niềm tin yêu cuộc sống.
Huỳnh Duy Siêng sinh năm 1937. Khi vừa lên ba tuổi, Huỳnh Duy Siêng bị bệnh đậu mùa. Cái vùng đất Tuy Hòa ngày ấy chỉ là một thị trấn nhỏ, thưa thớt dân cư, bác sĩ càng hiếm. Dù gia đình đã cố sức chạy chữa, nhưng biến chứng của bệnh đậu mùa đã cướp đi đôi mắt của ông. “Hơn 70 năm qua, tui sống trong bóng tối triền miên”, ông Huỳnh Duy Siêng thổ lộ nhẹ nhàng. Tôi thắc mắc, khi bước vào giai đoạn nào trong đời, thì ông mới thấy sự thiệt thòi của mình? Không chút đắn đo, Huỳnh Duy Siêng trả lời mạch lạc: “Tui còn nhớ rất rõ, đó là lúc mấy đứa hàng xóm sang chơi nhà tui khoe rằng, ngày mai tụi nó sẽ đi học. Năm ấy 7 tuổi, tui nói với má tui: “Sao con không được đến lớp?” Má tui không nói gì, bà ôm tui thật chặt vào lòng. Tui lặp lại câu hỏi ấy đến lần thứ ba, thì nghe nước mắt rơi lộp độp trên mặt tui. Má tui khóc. Những giọt nước mắt nóng hổi đã dạy tui rằng, cái sự mù của tui chính là vết thương khủng khiếp đối với má tui. Từ đó, tui không hỏi nữa. Tui sợ má tui buồn!”
Gia đình không đến nỗi túng thiếu, nhưng thập niên 40 của thế kỷ 20 thì chữ nổi chưa du nhập đến xứ sở mà Huỳnh Duy Siêng sinh sống, nên ông chấp nhận mù chữ. Tuy nhiên, Huỳnh Duy Siêng vẫn có phương pháp học của ông. Mỗi ngày ông lén trốn khỏi nhà, lò dò đi theo tụi bạn đến trường tiểu học. Bạn bè ngồi trong lớp, còn ông ngồi ngoài hành lang. Dù nghe tiếng được tiếng mất, nhưng bài văn vần nào lọt vào tai thì ông thuộc ngay lập tức. Khốn nỗi, những ngày học… chui kéo dài không được bao lâu. Một hôm ông vừa dọ dẫm đến trường thì nước lụt tràn về. Học trò sáng mắt di tản hết, còn ông quờ quạng không biết chạy đường nào. Ông ôm được một gốc cây, và cứ đứng yên giữa mưa gió cho đến khi… không biết gì nữa. Huỳnh Duy Siêng hồi tưởng: “Tui tỉnh lại lúc nghe tiếng kêu thất thanh của má tui. Sau cả buổi tìm kiếm, má tui phát hiện tui đã cứng đờ bên gốc cây. Bế tui về nhà, thấy toàn thân tui lạnh ngắt, má tui tưởng tui đã chết nên gào thảm thiết. Cái câu than trách gần như một sự vô vọng của má tui khiến tui không dám mạo hiểm tự ý ra khỏi nhà nữa. Tui nghĩ rằng, nếu tui gặp tai nạn gì chắc má tui không sống nổi!”. Tôi tò mò: “Má của ông đã kêu gì mà ông ám ảnh vậy?”. Âm thanh từ miệng Huỳnh Duy Siêng trầm hẳn xuống: “Giữa sấm chớp đì đùng, tui nghe má tui kêu “trời ơi là trời” rất ai oán và não nùng!”.
Sau cú thoát hiểm trong gang tấc kia, Huỳnh Duy Siêng không lén đến trường nghe giảng bài nữa. Huỳnh Duy Siêng quanh quẩn trong sân nhà, khỏe thì trèo cây, mệt thì nghe đài. Mỗi chiều, khi cha tan sở, Huỳnh Duy Siêng nài nỉ cha dắt xuống biển để tập bơi. Cơn lụt dạo nào đã giúp ông biết được, người mù không biết bơi sẽ không xoay sở được khi gặp sóng nước. Chỉ mất vài tháng, Huỳnh Duy Siêng bơi giỏi hơn tất cả lũ trẻ láng giềng. Và cũng nhờ sớm ý thức tập bơi mà mấy chục năm sau ông đã có dịp chiến thắng thủy thần một cách ngoạn mục. Năm 1993, Phú Yên bị một trận lụt lịch sử. Đúng hôm ấy, Huỳnh Duy Siêng có hẹn đi đọc thơ giao lưu bên kia sông Chùa. Khi những vần điệu du dương kết thúc, thì mấy chục thi sĩ cấp tỉnh lẫn cấp huyện đều hồn xiêu phách tán vì nước lụt giăng kín bốn bề. Người sáng mắt hoảng hốt tìm đường tháo chạy, riêng Huỳnh Duy Siêng vẫn bình tĩnh. Ông bàn bạc với những người đi cùng và nhẩm tính, nếu đi đường cũ về thì phải vượt qua 10 cây số mà đường xá đã bị nước phủ trắng xóa rồi, cứ bơi cắt ngang sông Chùa sẽ đến nhà nhanh nhất. Sau khi xác định chỉ cần bơi thẳng hướng sẽ là bờ bên kia của thị xã Tuy Hòa, nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng lao mình xuống nước và bơi một mạch. Những người còn lại ngạc nhiên đến mức tái mặt, nhưng cũng tăm tắp làm theo Huỳnh Duy Siêng. Kết quả, nhà thơ mù 56 tuổi Huỳnh Duy Siêng đã dẫn đám thi hữu trẻ về đến nơi an toàn!
Khi nỗi đau về đứa con đầu lòng bị mù dần tan biến, mẹ của Huỳnh Duy Siêng sinh thêm hai người con nữa. Vậy là Huỳnh Duy Siêng có một đứa em trai và một đứa em gái. Những buổi tối, khi hai đứa em mở vở ra học, thì Huỳnh Duy Siêng cũng mở đài ra… học. Từ cái đài, Huỳnh Duy Siêng thuộc hàng trăm ca khúc, từ Văn Cao cho đến Trịnh Công Sơn, và có khả năng hát rất đúng nhạc, rất truyền cảm. Huỳnh Duy Siêng cười hề hề nhắc lại… mối tình đầu của ông: “Hồi ba mươi tuổi, hình như tui cũng đẹp trai. Có cô gái nhà đối diện ngày nào cũng sang đề nghị tui hát nhạc tiền chiến cho cô ấy nghe. Mỗi lần tui hát xong thì có sẵn miếng ổi hay miếng xoài do cô ấy gọt sẵn cho tui ăn. Ấm áp lắm, ngọt ngào lắm. Được vài năm thì cô ấy đi lấy chồng! Tui thất tình và làm thơ!”. Bài thơ Huỳnh Duy Siêng viết cho mối duyên ngắn ngủi kia, khá gần gũi với bối cảnh thật: “Em đứng gần chờ nghe tôi hát, dòng sông nào trôi trong ca dao”. Người phụ nữ thoảng qua trong đời ấy, cứ hiện về day dứt và xôn xao trong suốt cuộc sống cô lẻ của Huỳnh Duy Siêng. Bài thơ “Hết mùa thu chưa em?” ông viết gửi theo người con gái ấy như một tiếng thở dài hắt hiu: “Mây trời bay ngơ ngác. Cành cao rơi tiếng chim. Nghe lòng khơi biển động. Bên đường bóng chiều nghiêng. Mơ màng theo khói thuốc. Tôi hình dung tóc em”.
    Một người khiếm thị vẫn luôn có thế mạnh về thính giác. Thơ Huỳnh Suy Siêng thường biểu đạt bằng trạng thái “nghe”. Tuy nhiên, ông không chỉ nghe bằng đôi tai mà nghe bằng cả trái tim nữa: “Nghe nỗi nhớ dài thêm. Nghe lá chiều gió lật”. Có lẽ, không ít người băn khoăn, Huỳnh Duy Siêng bị mù từ nhỏ và không hề biết chữ, vậy ông làm thơ bằng cách nào? Suốt ngày Huỳnh Duy Siêng lủi thủi vào ra, chỉ có cái đài để bầu bạn và để kết nối với thế giới. Giữa nghiệt ngã số phận ấy, giữa âm u bóng tối ấy, thơ đã tìm đến với ông. Ông hình thành ý tứ trong đầu, rồi sắp xếp một bài thơ hoàn chỉnh trước khi đọc ra, nhờ người khác ghi chép lại. Khi sáng tạo thi ca vượt qua bóng tối học vấn và bóng tối định mệnh, thì mỗi bài thơ của Huỳnh Duy Siêng có giá trị bằng hai bài thơ. Bởi lẽ chính khao khát sống, rung cảm sống của Huỳnh Duy Siêng đã là một bài thơ cho chúng ta rồi!
Năm 2012, nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng đã bước qua tuổi 75. Lần gặp gần đây nhất tại Tuy Hòa, ông đọc cho tôi nghe mấy câu thơ mới viết, thăm thẳm hoài vọng và ưu tư: “Cơn mưa chiều chợt đến. Như một đêm chuyện dài. Lật nhàu trang nhật ký. Tháng ngày ta nhớ ai? Dòng sông đời bão táp. Xô vỡ tình yêu em. Dẫu đường đời băng giá. Ta vẫn làm cánh chim”. Tỏ vẻ ngập ngừng, ông đề nghị: “Dạo này tui thấy gân cốt yếu lắm rồi. Tui mơ ước được in một tập thơ. Cậu ở Sài Gòn, có điều kiện, giúp tui được không? Tui đã chọn sẵn 50 bài, cậu cứ tùy nghi xử lý!”. Không chút đắn đo, tôi nhận lời. Huỳnh Duy Siêng cười hề hề: “Tốt quá. Vậy là tui có tập thơ để chính thức trở thành nhà thơ mù!”
Tạm biệt ông, tôi thưa rằng, tập thơ của ông khi đến tay bạn đọc còn là một minh chứng về nghị lực sống. Huỳnh Duy Siêng bảo: “Tui lúc nào cũng lạc quan. Cả đời tui chỉ khóc một lần. Đó là ngày má tui hấp hối, bà gọi tui đến bên giường bệnh, nói thều thào: “Má sinh con mà không thể san sẻ bất hạnh của con. Con để tang má đã là đại hiếu rồi. Con không phải đưa má ra nghĩa trang đâu. Con bị mù, má miễn cho con!”. Nghe vậy, tui đã òa khóc như một đứa trẻ!”.